Trả lời:
Pháp luật Việt Nam không bảo vệ các quyền lợi lao động của NLĐ là người nước ngoài tương tự như đối với NLĐ là người Việt Nam. Theo đó, muốn được làm việc hợp pháp tại Việt Nam, trừ các trường hợp được miễn giấy phép lao động theo quy định, NLĐ là người nước ngoài phải được cơ quan quản lý lao động có thẩm quyền của Việt Nam cấp giấy phép lao động. Mà thời hạn tối đa của giấy phép lao động theo quy định là 02 năm, cho nên dù BLLĐ nói chung cho phép NSDLĐ và NLĐ giao kết HĐLĐ xác định thời hạn đến tối đa 36 tháng hoặc là HĐLĐ không xác định thời hạn tùy theo nhu cầu của các bên nhưng HĐLĐ với NLĐ là người nước ngoài chỉ có thể là HĐLĐ xác định thời hạn và thời hạn đó tối đa cũng chỉ là 02 năm và được gia hạn chỉ được 01 lần và tối đa cũng chỉ là 02 năm[1] vì NLĐ là người nước ngoài bị giới hạn bởi thời hạn tối đa của giấy phép lao động như được trình bày ở trên. Tuy nhiên, NLĐ là người nước ngoài lại được quyền giao kết HĐLĐ xác định thời hạn với NSDLĐ nhiều lần nếu các bên thực tế có nhu cầu và các thủ tục có liên quan đến tuyển dụng người nước ngoài được các bên tuân thủ và thực hiện theo.
Tuy nhiên, vẫn còn vấn đề chưa được rõ là đối với những trường hợp NLĐ là người nước ngoài được miễn giấy phép lao động theo quy định ví dụ như NLĐ là người nước ngoài kết hôn với người Việt Nam và sinh sống trên lãnh thổ Việt Nam hay người nước ngoài là chủ sở hữu hoặc là thành viên góp vốn của công ty trách nhiệm hữu hạn, thành viên và chủ tịch hội đồng quản trị công ty cổ phần thì có thể giao kết HĐLĐ thứ 3 với NSDLĐ ở Việt Nam là HĐLĐ không xác định thời hạn hay không.
[1] Điều 19 Nghị định 152/2020/NĐ-CP của Chính phủ ngày 30/12/2020