Trả lời:
Các văn bản hướng dẫn của Luật thuế thu nhập cá nhân đều quy định mức tối đa chịu thuế của khoản tiền thuê nhà mà người sử dụng lao động trả hộ cho người lao động là 15% tổng thu nhập chịu thuế (chưa bao gồm tiền thuê nhà)[1]. Như vậy, nếu tiền thuê nhà mà người sử dụng lao động trả hộ cho người lao động cao hơn 15% tổng thu nhập chịu thuế (chưa bao gồm tiền thuê nhà) thì mức vượt quá đó không phải tính vào thu nhập chịu thuế của người lao động.
Từ quy định trên, một số người sử dụng lao động có xu hướng tách một phần trong tổng tiền lương, phụ cấp phải trả cho người lao động thành phụ cấp tiền thuê nhà (chú ý là không phải trả bằng tiền mặt mà là doanh nghiệp trả thẳng tiền thuê cho chủ thuê nhà) để phần nào có lợi hơn cho người lao động về số thuế thu nhập cá nhân phải đóng.
Mặc dù các văn bản hướng dẫn thi hành Luật thuế thu nhập cá nhân không quy định mức tối đa của phụ cấp tiền thuê nhà mà người lao động được hưởng cũng như các điều kiện và các tài liệu/chứng từ chứng minh kèm theo, nhưng khi xét ở góc độ thuế thu nhập doanh nghiệp thì tiền thuê nhà mà người sử dụng lao động trả hộ cho người lao động phải đáp ứng đầy đủ các điều kiện như dưới đây mới được xem là chi phí được trừ khi tính thuế thu nhập doanh nghiệp[2]:
- Việc thuê nhà cho người lao động là có thật;
- Khoản chi phí tiền thuê nhà phải được ghi cụ thể tại một trong các hồ sơ sau: hợp đồng lao động; thỏa ước lao động tập thể; quy chế tài chính của công ty, tổng công ty, tập đoàn; quy chế thưởng do chủ tịch hội đồng quản trị, tổng giám đốc, giám đốc quy định theo quy chế tài chính của công ty, tổng công ty;
- Có đầy đủ hóa đơn, chứng từ theo quy định; và
- Được chuyển khoản thanh toán qua ngân hàng nếu số tiền thuê trên 20 triệu đồng.
Do đó, bên cạnh quy định về tiền thuê nhà trong hợp đồng lao động ký với người lao động hay thỏa ước lao động tập thể, người sử dụng lao động vẫn có thể bị cơ quan thuế địa phương yêu cầu chứng minh hóa đơn, chứng từ cho khoản tiền thuê nhà trả hộ cho người lao động. Đó có thể là hợp đồng thuê nhà và chứng từ thanh toán tiền thuê nhà nếu người sử dụng lao động thuê nhà cho người lao động; chứng từ chứng minh người lao động thực tế có sử dụng phụ cấp tiền thuê nhà mà người sử dụng lao động trả thêm ngoài lương và các phụ cấp khác. Trường hợp người sử dụng lao động không thể chứng minh được, phụ cấp thuê nhà đó có thể không được ghi nhận là chi phí được trừ của người sử dụng lao động khi tính thuế thu nhập doanh nghiệp.
[1] Thông tư 111/2013/TT-BTC ngày 15/8/2013, được sửa đổi, bổ sung bởi Thông tư 151/2014/TT-BTC ngày 10/2014 và Thông tư 92/2015/TT-BTC ngày 15/6/2015.
[2] Điều 6 Thông tư 78/2014/TT-BTC ngày 18/6/2014, được sửa đổi, bổ sung bởi Điều 4 Thông tư 96/2015/TT-BTC ngày 22/6/2015