Trả lời:
Theo quy định của Luật TTNCN, đối với cá nhân cư trú ký HĐLĐ từ 03 tháng trở lên thì NSDLĐ sẽ thực hiện việc khấu trừ thuế theo biểu thuế lũy tiến từng phần, kể cả nếu cá nhân ký hợp đồng từ 03 tháng trở lên tại nhiều nơi[1]. Đối với những cá nhân cư trú không ký HĐLĐ hoặc ký HĐLĐ dưới 03 tháng có tổng mức trả thu nhập từ 02 triệu đồng trở lên, thì các tổ chức, cá nhân trả tiền công, tiền thù lao, tiền chi khác cho cá nhân phải khấu trừ thuế theo mức 10% trên thu nhập trước khi chi trả cho cá nhân[2].
Về việc quyết toán TTNCN, NLĐ có thể ủy quyền cho NSDLĐ quyết toán TTNCN thay nếu NLĐ là cá nhân có thu nhập từ tiền lương, tiền công ký HĐLĐ từ 03 tháng trở lên và thực tế đang làm việc vào thời điểm ủy quyền quyết toán thuế, kể cả nếu không làm việc đủ 12 tháng trong năm, đồng thời có thu nhập vãng lai từ các nơi khác với bình quân tháng trong năm không quá 10 triệu đồng đã được đơn vị trả thu nhập khấu trừ thuế theo tỷ lệ 10% mà không có yêu cầu quyết toán thuế đối với phần thu nhập này[3]. Như vậy, giả sử NLĐ trong trường hợp nêu trên là cá nhân cư trú có ký HĐLĐ từ 03 tháng trở lên và vẫn đang làm việc theo HĐLĐ tại thời điểm quyết toán TTNCN, thì việc quyết toán TTNCN của NLĐ sẽ được thực hiện tùy theo từng trường hợp cụ thể như sau:
- Nếu NLĐ có thu nhập vãng lai từ hợp đồng dự án bên ngoài bình quân tháng trong năm từ 10 triệu đồng trở lên đã được đơn vị chi trả thu nhập khấu trừ thuế theo tỷ lệ 10% thì NLĐ phải tự quyết toán thuế với cơ quan thuế mà không thể ủy quyền cho NSDLĐ trả tiền lương, tiền công thực hiện quyết toán thuế thay.
- NSDLĐ trả tiền lương, tiền công theo HĐLĐ và đơn vị trả tiền công, tiền thù lao và các khoản chi khác theo hợp đồng dự án có trách nhiệm cấp chứng từ khấu trừ TTNCN cho NLĐ để NLĐ thực hiện quyết toán thuế[4].
- Ngược lại, nếu NLĐ có thu nhập vãng lai từ hợp đồng dự án bên ngoài bình quân tháng trong năm không quá 10 triệu đồng đã được đơn vị chi trả thu nhập khấu trừ thuế theo tỷ lệ 10% mà không có yêu cầu quyết toán thuế đối với phần thu nhập vãng lai này thì NLĐ có thể ủy quyền cho NSDLĐ quyết toán thuế thay đối với phần thu nhập từ tiền lương, tiền công mà NLĐ nhận được từ NSDLĐ.
[1] Điều 25.1(b.1) Thông tư 111/2013/TT-BTC của Bộ Tài chính ngày 15/08/2013
[2] Điều 25.1(i) Thông tư 111/2013/TT-BTC của Bộ Tài chính ngày 15/08/2013
[3] Điều 16.2 (a.4) Thông tư 156/2013/TT-BTC của Bộ Tài chính ngày 06/11/2013, được sửa đổi, bổ sung bởi Điều 21.3 Thông tư 92/2015/TT-BTC của Bộ Tài chính ngày 15/06/2015 và Điều 8.6 (d2) Nghị định 126/2020/NĐ-CP của Chính phủ ngày 19/10/2020
[4] Điều 25.2 Thông tư 111/2013/TT-BTC của Bộ Tài chính ngày 15/08/2013