Trả lời:
Theo quy định của Bộ luật Lao động, người sử dụng lao động chỉ được khấu trừ tiền lương của người lao động để bồi thường thiệt hại do người lao động làm hư hỏng dụng cụ, thiết bị của người sử dụng lao động[1]. Ngoài ra, Bộ luật Lao động không có quy định thêm trường hợp nào khác mà Nngười sử dụng lao động ược quyền khấu trừ tiền lương của người lao động. Do đó, trường hợp người lao động muốn mua cổ phiếu do người sử dụng lao động phát hành, người sử dụng lao động không được khấu trừ tiền mua cổ phiếu vào tiền lương của người lao động.
Trong trường hợp người sử dụng lao động là văn phòng đại diện của thương nhân nước ngoài tại Việt Nam và người lao động muốn mua cổ phiếu do công ty mẹ ở nước ngoài của văn phòng đại diện phát hành, thì người lao động cần lưu ý thêm rằng văn phòng đại diện của thương nhân nước ngoài tại Việt Nam là đơn vị phụ thuộc của thương nhân nước ngoài, được thành lập theo quy định của pháp luật Việt Nam để tìm hiểu thị trường và thực hiện một số hoạt động xúc tiến thương mại mà pháp luật Việt Nam cho phép[2]. Như vậy, văn phòng đại diện chỉ được phép thực hiện các hoạt động xúc tiến thương mại và không phát sinh doanh thu. Do đó, không có cơ sở pháp lý cho phép văn phòng đại diện nhận thanh toán tiền mua cổ phiếu của công ty mẹ dù dưới hình thức thu hộ tiền mặt hoặc chuyển khoản.
Bên cạnh đó, việc người lao động mua cổ phiếu do công ty mẹ ở nước ngoài của văn phòng đại diện phát hành được xem là một hình thức đầu tư gián tiếp ra nước ngoài[3]. Theo đó, nhà đầu tư là cá nhân có quốc tịch Việt Nam chỉ được thực hiện đầu tư gián tiếp ra nước ngoài dưới hình thức tham gia chương trình thưởng cổ phiếu (không phải trả tiền mua) phát hành ở nước ngoài[4]. Tuy nhiên, cũng không đơn giản để tổ chức phát hành cổ phiếu thưởng cho người lao động, mà Điều 8 Thông tư 10/2016/TT-NHNN ngày 29/06/2016 yêu cầu chương trình thưởng cổ phiếu phát hành ở nước ngoài có đối tượng tham gia là người lao độngcó quốc tịch Việt Nam chỉ được thực hiện sau khi được ngân hàng Nhà nước xác nhận đăng ký. Qua đó có thể thấy việc thực hiện đầu tư ra nước ngoài dưới hình thức sở hữu cổ phiếu do công ty tại nước ngoài phát hành khá phức tạp, đòi hỏi phải tuân thủ nhiều quy trình và thủ tục theo quy định của pháp luật Việt Nam như đã nói ở trên và pháp luật của nước nơi công ty nước ngoài đặt trụ sở.
[1] Điều 101 Bộ luật Lao động
[2] Điều 3.6 Luật Thương mại
[3] Điều 52.1 (d) Luật Đầu tư
[4] Điều 2.1 (b) và Điều 5.1 Nghị định 135/2015/NĐ-CP ngày 31/12/2015