Trả lời:
Để đơn phương chấm dứt HĐLĐ nếu NLĐ thường xuyên không hoàn thành công việc, quy định của BLLĐ chỉ yêu cầu NSDLĐ ban hành tiêu chí đánh giá mức độ hoàn thành công việc của NLĐ trong quy chế của doanh nghiệp sau khi có ý kiến của tổ chức đại diện NLĐ tại cơ sở trước khi ban hành[1]. Theo đó, ý kiến của NLĐ (đồng ý, không đồng ý, không có ý kiến) sẽ không phải là điều kiện bắt buộc để quy chế đánh giá mức độ hoàn thành nhiệm vụ có hiệu lực. Vì vậy, nếu đã ban hành quy chế đánh giá mức độ hoàn thành công việc theo trình tự, thủ tục theo quy định của pháp luật lao động thì NSDLĐ có quyền căn cứ vào đó để đơn phương chấm dứt HĐLĐ với NLĐ, bất kể NLĐ có đồng ý với quy chế do NSDLĐ ban hành hay không.
Tuy nhiên, nếu NLĐ không đồng ý với việc đơn phương chấm dứt HĐLĐ của NSDLĐ và khiếu nại đến cơ quan quản lý lao động hoặc khởi kiện ra Tòa án có thẩm quyền, NSDLĐ có nghĩa vụ chứng minh tính hợp pháp của quyết định đơn phương chấm dứt HĐLĐ của mình, cụ thể là chứng minh tính hợp pháp và hợp lý của quy chế đánh giá mức độ hoàn thành nhiệm vụ của NLĐ mà doanh nghiệp đã ban hành[2]. Nếu cơ quan quản lý lao động và/hoặc Tòa án có thẩm quyền xem xét và quyết định rằng quy chế do NSDLĐ ban hành không có giá trị áp dụng vì có những nội dung trái với quy định của pháp luật hoặc không phù hợp với tình hình thực tế của doanh nghiệp hoặc có dấu hiệu không công bằng với NLĐ, thì trước hết việc đơn phương chấm dứt HĐLĐ với NLĐ có thể bị tuyên là trái pháp luật. Trên cơ sở đó, NSDLĐ buộc phải điều chỉnh lại quy chế đánh giá mức độ hoàn thành nhiệm vụ của NLĐ và lấy ý kiến của tổ chức đại diện NLĐ tại cơ sở đối với quy chế được điều chỉnh để làm cơ sở đánh giá mức độ hoàn thành công việc của NLĐ cho các lần đánh giá sau.
Như vậy,
để tránh tình huống quy chế đánh giá mức độ hoàn thành công việc không được NLĐ
đồng ý hoặc không nhận được sự đồng tình về mặt nội dung của các cơ quan giải
quyết tranh chấp lao động có thẩm quyền thì quy chế đó nên có sự đồng ý của tất
cả các thành viên trong tổ chức đại diện NLĐ tại cơ sở trước khi được ban hành.
Bên cạnh đó, nội dung của quy chế cũng không được trái với quy định của pháp luật
có liên quan cũng như NSDLĐ đã có trao đổi với NLĐ về các tiêu chí đánh giá mức
độ hoàn thành công việc sẽ được áp dụng đó, như là một hình thức thông tin và
giải thích trước cho NLĐ.
[1] Điều 36.1 (a) BLLĐ
[2] Điều 91.1 (b) Bộ luật Tố tụng dân sự 2015