Câu hỏi 116. NLĐ bị tai nạn trên tuyến đường đi và về từ nơi ở đến nơi làm việc thì có được xem là tai nạn lao động không?

Trả lời:

1. Tai nạn trên tuyến đường đi và về từ nơi ở đến nơi làm việc

Tai nạn lao động là tai nạn gây tổn thương cho bất kỳ bộ phận, chức năng nào của cơ thể hoặc gây tử vong đối với NLĐ, xảy ra trong quá trình lao động, gắn liền với việc thực hiện công việc, nhiệm vụ lao động[1].

Theo quy định của Luật An toàn, VSLĐ, NLĐ nào bị tai nạn trên tuyến đường đi từ nơi ở đến nơi làm việc hoặc từ nơi làm việc về nơi ở trong khoảng thời gian và tuyến đường hợp lý sẽ thuộc một trong các trường hợp được hưởng các khoản trợ cấp, bồi thường từ NSDLĐ và chế độ tai nạn lao động của quỹ bảo hiểm tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp theo quy định của Luật BHXH[2].

Như vậy, căn cứ vào quy định trên, tai nạn xảy ra với NLĐ trên tuyến đường NLĐ đi từ nơi ở đến nơi làm việc hoặc từ nơi làm việc về nơi ở sẽ được xem là tai nạn lao động nếu tai nạn đó xảy ra trong khoảng thời gian và tuyến đường hợp lý. Nói một cách khác, địa điểm và thời gian xảy ra tai nạn là yếu tố để xác định tai nạn lao động trong trường hợp này. Tuy nhiên, Luật An toàn, VSLĐ cũng như các văn bản hướng dẫn thi hành chưa có quy định nào hướng dẫn việc xác định yếu tố “trong khoảng thời gian và tuyến đường hợp lý” để làm căn cứ xác định tai nạn lao động. Tham khảo quy định cũ đã hết hiệu lực thì “trong khoảng thời gian và tuyến đường hợp lý” được hiểu như sau[3]:

  • “Khoảng thời gian hợp lý” là khoảng thời gian cần thiết để đến nơi làm việc trước giờ làm việc hoặc trở về sau giờ làm việc; và
  • “Tuyến đường hợp lý” là tuyến đường thường xuyên đi và về từ nơi thường trú hoặc nơi đăng ký tạm trú đến nơi làm việc và ngược lại.

Theo tinh thần của các quy định trên, việc xác định yếu tố “trong khoảng thời gian và tuyến đường hợp lý” để xác định có phải là tai nạn lao động hay không sẽ tùy thuộc nhiều vào nhận định khách quan của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền điều tra tai nạn lao động. Chỉ khi nào cơ quan này xác định tai nạn xảy ra thỏa mãn được điều kiện về mặt địa điểm và thời gian này thì mới được xem là tai nạn lao động và khi đó, NLĐ mới được quyền được hưởng trợ cấp, bồi thường và chế độ tai nạn lao động theo quy định của pháp luật.

2. Trách nhiệm của NSDLĐ đối với NLĐ bị tai nạn lao động trên tuyến đường đi và về từ nơi ở đến nơi làm việc

NLĐ nào bị tai nạn lao động khi đi từ nơi ở đến nơi làm việc hoặc từ nơi làm việc về nơi ở, nếu do lỗi của người khác gây ra hoặc không xác định được người gây ra tai nạn, thì NSDLĐ có trách nhiệm trả trợ cấp cho NLĐ tùy theo mức suy giảm khả năng lao động tương ứng của NLĐ như sau[4]:

  • Ít nhất bằng 40% của 1,5 tháng tiền lương nếu bị suy giảm từ 5% đến 10% khả năng lao động; sau đó cứ tăng 1% được cộng thêm 0,4 tháng tiền lương nếu bị suy giảm khả năng lao động từ 11% đến 80%; và
  • Ít nhất bằng 40% của 30 tháng tiền lương cho NLĐ bị suy giảm khả năng lao động từ 81% trở lên hoặc cho thân nhân NLĐ bị chết do tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp.

Bên cạnh đó, NLĐ sẽ không được hưởng chế độ nêu trên từ NSDLĐ nếu tai nạn xảy ra do một trong các nguyên nhân sau đây[5]:

  • Do mâu thuẫn của chính nạn nhân NLĐ với người gây ra tai nạn mà không có liên quan đến việc thực hiện công việc, nhiệm vụ lao động;
  • Do NLĐ cố ý tự hủy hoại sức khỏe của bản thân; hoặc
  • Do NLĐ sử dụng ma túy, chất gây nghiện khác trái với quy định của pháp luật.

3. Hưởng chế độ tai nạn lao động

Khi xảy ra tai nạn trong khi đi từ nơi ở đến nơi làm việc hoặc từ nơi làm việc về nơi ở và được xác định là tai nạn lao động, ngoài việc được trả trợ cấp từ NSDLĐ như nêu tại mục 2 trên đây, NLĐ thuộc đối tượng tham gia BHXH bắt buộc còn được hưởng chế độ tai nạn lao động của quỹ bảo hiểm tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, là quỹ thành phần của quỹ BHXH theo quy định của Luật BHXH.

Cụ thể, NLĐ bị tai nạn lao động khi đi từ nơi ở đến nơi làm việc hoặc từ nơi làm việc về nơi ở sẽ được hưởng chế độ tai nạn lao động nếu NLĐ bị suy giảm khả năng lao động từ 5% trở lên[6]. Đồng thời, tai nạn lao động xảy ra không phải do một trong các nguyên nhân đã nêu tại mục 2 trên đây[7]. NLĐ sẽ được hưởng mức trợ cấp tai nạn lao động trên cơ sở mức suy giảm khả năng lao động, mức đóng và thời gian đóng vào quỹ bảo hiểm tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp[8].


[1] Điều 3.8 Luật An toàn, VSLĐ

[2] Điều 39.2, Điều 45.1.(c) Luật An toàn, VSLĐ

[3] Điều 19.3 Nghị định 152/2006/NĐ-CP của Chính phủ ngày 22/12/2006

[4] Điều 38.4, Điều 38.5 và Điều 39.2 Luật An toàn, VSLĐ

[5] Điều 40 Luật An toàn, VSLĐ

[6] Điều 45.2 Luật An toàn, VSLĐ

[7] Điều 40 và Điều 45.3 Luật An toàn, VSLĐ

[8] Điều 41.3 Luật An toàn, VSLĐ