7.2. Trách nhiệm vật chất

Trong quá trình làm việc, nếu NLĐ làm hư hỏng dụng cụ, thiết bị hoặc có các hành vi khác mà gây thiệt hại tài sản của NSDLĐ thì NSDLĐ có quyền yêu cầu NLĐ bồi thường thiệt hại theo quy định của pháp luật lao động.

Quy định của pháp luật lao động chưa có quy định hay giải thích rõ “hành vi khác” là gì. Dưới góc độ khoa học pháp lý, trách nhiệm vật chất là trách nhiệm phải bồi thường những thiệt hại về tài sản do hành vi vi phạm KLLĐ hoặc do NLĐ thiếu tinh thần trách nhiệm trong khi thực hiện nghĩa vụ lao động gây ra. Theo đó, trên thực tế, “hành vi khác” thường được giải thích là những hành vi của NLĐ (cả do sơ suất hoặc do cố ý) trong quá trình lao động gây ra thiệt hại (làm hư hỏng, suy giảm giá trị sử dụng) đối với tài sản của NSDLĐ. Tuy nhiên, do chưa có giải thích rõ ràng về vấn đề này, NSDLĐ nên quy định rõ về các “hành vi khác” trong NQLĐ (bằng cách định nghĩa kết hợp với liệt kê các hành vi cụ thể) để có cơ sở vững chắc và thuận lợi khi yêu cầu bồi thường.

Về khái niệm “tài sản”, Bộ luật Lao động và các văn bản hướng dẫn hiện hành chưa có quy định nào xác định tài sản bị thiệt hại của NSDLĐ là gì. Vì vậy, về mặt nguyên tắc, tài sản có thể được giải thích theo khái niệm “tài sản” như quy định trong Bộ luật nguồn tức là Bộ luật Dân sự, cụ thể “tài sản là vật, tiền, giấy tờ có giá và quyền tài sản, bao gồm bất động sản và động sản, có thể là tài sản hiện có và tài sản hình thành trong tương lai[1]. Điều này có nghĩa là khái niệm tài sản được hiểu bao gồm cả tài sản hữu hình và tài sản vô hình như quyền tài sản, quyền sở hữu trí tuệ, bí mật kinh doanh. Ngoài ra, Điều 27.4 Nghị định 05/2015/NĐ-CP có quy định rằng NQLĐ của doanh nghiệp bao gồm nội dung về danh mục các tài sản, tài liệu, bí mật công nghệ, bí mật kinh doanh, sở hữu trí tuệ phải bảo vệ thuộc phạm vi trách nhiệm được giao của NLĐ.Như vậy, có thể thấy, dưới góc độ pháp luật lao động, tài sản vô hình ví dụ như bí mật công nghệ, bí mật kinh doanh, sở hữu trí tuệ cũng được coi là một loại tài sản của doanh nghiệp. Trên thực tế, các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền thường sẽ căn cứ vào danh mục các loại tài sản, tài liệu, bí mật công nghệ, bí mật kinh doanh, sở hữu trí tuệ phải bảo vệ thuộc phạm vi trách nhiệm được giao của NLĐ được quy định trong NQLĐ để xem xét hành vi của NLĐ có gây thiệt hại cho các loại tài sản mà doanh nghiệp đã liệt kê trong NQLĐ hay không. Do đó, NSDLĐ nên quy định rõ ràng về danh mục các loại tài sản, tài liệu, bí mật công nghệ, bí mật kinh doanh, sở hữu trí tuệ phải bảo vệ thuộc phạm vi trách nhiệm được giao của NLĐ để làm cơ sở cho việc xác định các tài sản thuộc nghĩa vụ bồi thường thiệt hại theo trách nhiệm vật chất.

Về nghĩa vụ bồi thường, nếu NLĐ gây thiệt hại không nghiêm trọng do sơ suất với giá trị không quá 10 tháng lương tối thiểu vùng do Chính phủ công bố được áp dụng tại nơi NLĐ làm việc, thì NLĐ phải bồi thường nhiều nhất là 03 tháng tiền lương ghi trong HĐLĐ của tháng trước liền kề trước khi gây thiệt hại và bị khấu trừ hằng tháng vào lương.

NLĐ phải bồi thường thiệt hại một phần hoặc toàn Bộ theo thời giá thị trường cho NSDLĐ khi xảy ra một trong các trường hợp sau đây:

  • NLĐ do sơ suất làm hư hỏng dụng cụ thiết bị với giá trị thiệt hại thực tế từ 10 tháng lương tối thiểu vùng trở lên áp dụng tại nơi NLĐ làm việc do Chính phủ công bố;
  • NLĐ làm mất dụng cụ, thiết bị, tài sản của NSDLĐ hoặc tài sản khác do NSDLĐ giao; hoặc
  • NLĐ tiêu hao vật tư quá định mức cho phép.

Nếu có hợp đồng trách nhiệm thì phải bồi thường theo hợp đồng trách nhiệm. Nếu do thiên tai, hỏa hoạn, địch họa, dịch bệnh, thảm họa, sự kiện xảy ra khách quan không thể lường trước được và không thể khắc phục được mặc dù đã áp dụng mọi biện pháp cần thiết và khả năng cho phép thì không phải bồi thường. Căn cứ vào lỗi, mức độ thiệt hại thực tế và hoàn cảnh thực tế gia đình, nhân thân và tài sản của NSDLĐ, NSDLĐ xem xét, quyết định mức bồi thường thiệt hại.

Nguyên tắc, trình tự và thủ tục xử lý bồi thường thiệt hại được áp dụng tương tự như trường hợp xử lý KLLĐ.


[1] Điều 105 Bộ luật Dân sự.