9.1. NLĐ nữ

Quy định của pháp luật lao động đưa ra những cách thức để giúp cho NLĐ nữ cân bằng được công việc, gia đình và sức khỏe. Theo đó, NLĐ nữ có quyền được chăm sóc sức khỏe, quyền lợi cơ bản về thai sản, quyền không bị sa thải/đơn phương chấm dứt HĐLĐ vì lý do kết hôn, mang thai, nghỉ thai sản, nuôi con dưới 12 tháng tuổi, quyền được trở lại làm việc sau khi nghỉ thai sản, quyền được nhận trợ cấp thai sản.

9.1.1.    Quyền được chăm sóc sức khỏe

NSDLĐ không được tuyển dụng, sử dụng NLĐ nữ cho các công việc nặng nhọc, có ảnh hưởng xấu tới chức năng sinh đẻ, nuôi con hay công việc yêu cầu phải ngâm mình thường xuyên dưới nước hay làm thường xuyên dưới hầm mỏ….

Ngoài việc được khám sức khỏe định kỳ hàng năm như những NLĐ khác, NSDLĐ phải đảm bảo NLĐ nữ được khám chuyên khoa phụ sản.

Trong quá trình làm việc mà trong thời gian hành kinh thì NLĐ nữ được nghỉ tối thiểu mỗi ngày 30 phút là 03 ngày trong một tháng và thời gian nghỉ vẫn được hưởng đủ tiền lương theo HĐLĐ. NLĐ sẽ thỏa thuận với NSDLĐ về thời gian nghỉ cụ thể phù hợp với điều kiện thực tế tại nơi làm việc và nhu cầu của NLĐ nữ.

Đối với NLĐ nữ trong thời gian nuôi con dưới 12 tháng tuổi thì được nghỉ mỗi ngày 60 phút trong thời gian làm việc để cho con bú, vắt, trữ sữa, nghỉ ngơi và thời gian nghỉ vẫn được hưởng đủ tiền lương theo HĐLĐ. NSDLĐ cũng được khuyến khích tạo điều kiện để NLĐ nữ nuôi con từ 12 tháng tuổi trở lên vắt, trữ sữa mẹ tại nơi làm việc. Thời gian nghỉ do NLĐ nữ thỏa thuận với NSDLĐ.

Khi thực hiện các biện pháp tránh thai thì NLĐ nữ được hưởng chế độ thai sản theo chỉ định của cơ sở khám bệnh, chữa bệnh có thẩm quyền. Thời gian nghỉ việc tối đa là 07 ngày đối với NLĐ nữ đặt vòng tránh thai; hoặc 15 ngày đối với NLĐ nữ thực hiện biện pháp triệt sản. Thời gian hưởng chế độ thai sản tính cả ngày nghỉ lễ, nghỉ Tết, ngày nghỉ hằng tuần.

9.1.2.   Quyền của lao động nữ khi đang mang thai

Khi NLĐ nữ đang mang thai từ tháng thứ 07 hoặc từ tháng thứ 06 nếu làm việc ở vùng cao, vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo hoặc đang nuôi con dưới 12 tháng tuổi thì NSDLĐ không được sử dụng NLĐ nữ làm việc ban đêm, làm thêm giờ và đi công tác xa.  Ngoài ra, khi mang thai từ tháng thứ 07 mà NLĐ nữ làm công việc nặng nhọc thì được chuyển làm công việc nhẹ hơn hoặc được giảm bớt 01 giờ làm việc hằng ngày mà vẫn hưởng đủ lương.

Trong thời gian mang thai, NLĐ nữ được nghỉ việc để đi khám thai 05 lần, mỗi lần 01 ngày; trường hợp ở xa cơ sở khám bệnh, chữa bệnh hoặc người mang thai có bệnh lý hoặc thai không bình thường thì được nghỉ 02 ngày cho mỗi lần khám thai. Thời gian nghỉ việc hưởng chế độ thai sản tính theo ngày làm việc không kể ngày nghỉ lễ, nghỉ Tết, ngày nghỉ hằng tuần. Để cho rõ ràng, NSDLĐ nên yêu cầu NLĐ nữ xuất trình các giấy chứng nhận sức khỏe chứng minh tình trạng về thai kỳ để có sắp xếp phù hợp.

9.1.3.   Quyền thai sản

  • Nghỉ thai sản thông thường

Không phân biệt thời gian làm việc của NLĐ cho NSDLĐ trong suốt thời gian mà HĐLĐ vẫn đang có hiệu lực (trừ khi HĐLĐ đã chấm dứt trước đó hoặc đã hết hạn), tất cả các NLĐ mang thai đều được nghỉ thai sản 06 tháng. Nếu sinh đôi trở lên thì tính từ con thứ 02 trở đi, cứ mỗi con, NLĐ được nghỉ thêm 01 tháng.

Trong giới hạn thời gian nhất định, NLĐ được tự do lựa chọn ngày bắt đầu nghỉ thai sản. Tuy nhiên, NLĐ nữ không được chọn ngày bắt đầu nghỉ thai sản sớm hơn trước khi dự sinh là 02 tháng.

Trong thời gian nghỉ thai sản, lao động nữ được hưởng chế độ thai sản theo quy định của pháp luật về BHXH. Mức hưởng chế độ thai sản bằng 100% mức bình quân tiền lương, tiền công tháng đóng BHXH của 06 tháng liền kề trước khi nghỉ việc. Thời gian nghỉ việc hưởng chế độ thai sản được tính là thời gian đóng BHXH. Thời gian này NLĐ và NSDLĐ không phải đóng BHXH.

  • Nghỉ thai sản đặc biệt

Khi bị sẩy thai, nạo, hút thai, thai chết lưu hoặc phá thai bệnh lý thì NLĐ nữ được nghỉ việc hưởng chế độ thai sản theo chỉ định của cơ sở khám bệnh, chữa bệnh có thẩm quyền. Thời gian nghỉ việc tối đa là 10 ngày nếu thai dưới 05 tuần tuổi; 20 ngày nếu thai từ 05 tuần tuổi đến dưới 13 tuần tuổi; 40 ngày nếu thai từ 13 tuần tuổi đến dưới 25 tuần tuổi; hoặc 50 ngày nếu thai từ 25 tuần tuổi trở lên. Thời gian nghỉ việc hưởng chế độ thai sản trong trường hợp này tính cả ngày nghỉ lễ, nghỉ Tết, ngày nghỉ hằng tuần.

Nếu sau khi sinh con mà con dưới 02 tháng tuổi bị chết thì NLĐ  nữ được nghỉ việc 04 tháng tính từ ngày sinh con; nếu con từ 02 tháng tuổi trở lên bị chết thì NLĐ nữ được nghỉ việc 02 tháng tính từ ngày con chết, nhưng thời gian nghỉ việc hưởng chế độ thai sản không vượt quá thời gian nghỉ thai sản thông thường và thời gian này không tính vào thời gian nghỉ việc riêng theo quy định của pháp luật lao động.

  • Nghỉ thai sản của NLĐ nam

Khi các chế độ về thai sản dành cho NLĐ nữ được hình thành và phát triển, pháp luật lao động đã bắt đầu đưa ra chế độ về thai sản cho NLĐ nam. NLĐ nam sẽ cần có thời gian nghỉ để chăm sóc cho con hoặc hỗ trợ cho vợ trong những ngày đầu mới sinh con.

Theo quy định của Luật BHXH, nếu NLĐ nam đang đóng BHXH khi vợ sinh con thì được nghỉ 05 ngày làm việc hoặc 07 ngày làm việc nếu vợ sinh con phải phẫu thuật hoặc sinh con dưới 32 tuần tuổi. Nếu vợ sinh đôi thì được nghỉ 10 ngày làm việc, từ sinh ba trở lên thì cứ thêm mỗi con được nghỉ thêm 03 ngày làm việc; nếu vợ sinh đôi trở lên mà phải phẫu thuật thì được nghỉ 14 ngày làm việc. Thời gian nghỉ việc hưởng chế độ thai sản được tính trong khoảng thời gian 30 ngày đầu kể từ ngày vợ sinh con.

Lưu ý, nếu chỉ có người mẹ tham gia BHXH hoặc cả cha và mẹ đều tham gia BHXH mà mẹ chết sau khi sinh con thì cha hoặc người trực tiếp nuôi dưỡng mới được nghỉ việc hưởng chế độ thai sản đối với thời gian nghỉ thai sản thông thường còn lại của người mẹ. Trường hợp mẹ tham gia BHXH nhưng không đủ điều kiện về đóng BHXH (tức đóng BHXH dưới 06 tháng trong thời gian 12 tháng trước khi sinh con hoặc NLĐ đóng BHXH đủ 12 tháng trở lên mà khi mang thai phải nghỉ việc để dưỡng thai theo chỉ định của cơ sở khám bệnh, chữa bệnh có thẩm quyền mà chỉ mới đóng BHXH dưới 03 tháng trong thời gian 12 tháng trước khi sinh con) thì khi đó, cha hoặc người trực tiếp nuôi dưỡng được nghỉ việc hưởng chế độ thai sản cho đến khi con đủ 06 tháng tuổi.

  • Nghỉ không hưởng lương ngay sau khi kết thúc thời gian nghỉ thai sản

Nếu hết thời gian nghỉ thai sản mà NLĐ nữ có nhu cầu thì có thể nghỉ thêm một thời gian không hưởng lương theo thỏa thuận với NSDLĐ. Sau đó, NLĐ nữ được quay trở lại làm việc với công việc làm cũ; còn nếu việc làm cũ không còn thì NSDLĐ phải bố trí việc làm khác cho NLĐ nữ với mức lương không thấp hơn mức lương trước khi nghỉ thai sản.

  • Đi làm khi chưa nghỉ hết thời gian nghỉ thai sản

Nếu có đề nghị của NLĐ nữ, NSDLĐ có thể chấp thuận hoặc không chấp thuận việc NLĐ nữ có nhu cầu đi làm khi chưa hết thời gian nghỉ thai sản theo quy định của pháp luật lao động.

NSDLĐ có quyền chấp thuận đề nghị nếu NLĐ nữ xuất trình được giấy xác nhận của cơ sở khám bệnh, chữa bệnh rằng việc đi làm sớm không có hại cho sức khỏe của NLĐ nữ và NLĐ nữ đã nghỉ thai sản được ít nhất 04 tháng. Trường hợp dù cả NLĐ nữ và NSDLĐ đều đồng ý và có xác nhận của cơ sở khám bệnh, chữa bệnh có thẩm quyền về việc NLĐ nữ đi làm sớm không có hại cho sức khỏe thì NLĐ nữ cũng không được trở lại làm việc sớm hơn thời hạn 04 tháng.

NSDLĐ phải trả đủ tiền lương của những ngày làm việc cho NLĐ nữ theo các nguyên tắc thông thường về việc trả lương và không loại trừ quyền được hưởng trợ cấp thai sản của NLĐ nữ theo quy định của Luật BHXH.

9.1.4.   Quyền thai sản của lao động nữ mang thai hộ

NLĐ nữ mang thai hộ được hưởng chế độ khi khám thai, sẩy thai, nạo, hút thai, thai chết lưu hoặc phá thai bệnh lý như NLĐ nữ mang thai khác và chế độ nghỉ thai sản khi sinh con cho đến thời điểm giao đứa trẻ cho người mẹ nhờ mang thai hộ nhưng không vượt quá thời gian nghỉ thai sản thông thường. Trong trường hợp kể từ ngày sinh đến thời điểm giao đứa trẻ mà thời gian hưởng chế độ thai sản chưa đủ 60 ngày thì người mang thai hộ vẫn được hưởng chế độ thai sản cho đến khi đủ 60 ngày tính cả ngày nghỉ lễ, nghỉ Tết, ngày nghỉ hằng tuần.

Người mẹ nhờ mang thai hộ được hưởng chế độ nghỉ thai sản khi sinh con từ thời điểm nhận con cho đến khi con đủ 06 tháng tuổi.

9.1.5.   Quyền thai sản của Người lao động nhận nuôi con nuôi

Đối với NLĐ nhận nuôi con nuôi dưới 06 tháng tuổi thì được nghỉ việc hưởng chế độ thai sản cho đến khi con đủ 06 tháng tuổi. Trường hợp cả cha và mẹ cùng tham gia BHXH đủ điều kiện hưởng chế độ thai sản thì chỉ cha hoặc mẹ được nghỉ việc hưởng chế độ.

9.1.6.   Quyền khi nuôi con dưới 12 tháng tuổi

NLĐ nữ đang trong thời gian nuôi con dưới 12 tháng tuổi, được nghỉ mỗi ngày 60 phút trong thời gian làm việc và thời gian nghỉ vẫn được hưởng đủ tiền lương theo HĐLĐ.

9.1.7.   Sa thải/đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động/xử lý kỷ luật lao động đối với lao động nữ

NLĐ nữ có quyền không bị NSDLĐ sa thải hoặc đơn phương chấm dứt HĐLĐ với các lý do liên quan đến việc kết hôn, mang thai, nghỉ thai sản, nuôi con dưới 12 tháng tuổi, bất kể tuổi tác hay số năm làm việc của NLĐ nữ đó, trừ khi NSDLĐ chấm dứt hoạt động.

Ngoài ra, trong thời gian mang thai, nghỉ hưởng chế độ khi sinh con theo quy định của Luật BHXH, nuôi con dưới 12 tháng tuổi thì NLĐ nữ cũng không bị xử lý KLLĐ. Nếu NLĐ vi phạm KLLĐ trong khoảng thời gian này thì NSDLĐ không được xử lý KLLĐ ngay lúc xảy ra hành vi vi phạm mà phải tạm hoãn việc xử lý KLLĐ cho đến khi thời gian nói trên chấm dứt. Sau khi thời hạn nêu trên chấm dứt mà thời hạn xử lý KLLĐ vẫn còn thì NSDLĐ cần tiến hành xử lý KLLĐ ngay. Nếu không còn, NSDLĐ được gia hạn cho việc xử lý KLLĐ và thời hạn gia hạn sẽ không quá 60 ngày lịch kể từ ngày hết thời gian cho từng trường hợp nêu trên.

Tuy nhiên, HĐLĐ với NLĐ nữ đang mang thai hoặc đang nghỉ thai sản đương nhiên được chấm dứt khi hết hạn nếu hai bên không gia hạn. Trong trường hợp này, NLĐ vẫn được hưởng mức hưởng chế độ thai sản theo quy định của Luật BHXH cho đến khi hết 06 tháng nghỉ thai sản miễn là NLĐ nữ đáp ứng đủ điều kiện hưởng chế độ thai sản theo quy định. Thời gian hưởng chế độ thai sản là từ khi nghỉ việc hưởng chế độ thai sản cho đến khi HĐLĐ hết hạn được tính là thời gian đóng BHXH, thời gian nghỉ việc hưởng chế độ thai sản sau khi HĐLĐ hết thời hạn không được tính là thời gian đóng BHXH[1].

9.1.8. Quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động hoặc tạm hoãn hợp đồng lao động của lao động nữ

Như đã nói trên đây, NLĐ nữ được quyền đơn phương chấm dứt HĐLĐ hoặc tạm hoãn HĐLĐ với NSDLĐ trong trường hợp đang mang thai và có xác nhận của cơ sở khám bệnh, chữa bệnh có thẩm quyền chứng nhận nếu NLĐ nữ này tiếp tục làm việc sẽ ảnh hưởng xấu tới thai nhi. Thời hạn mà NLĐ nữ đó phải báo trước cho NSDLĐ sẽ tùy thuộc vào thời hạn do cơ sở khám bệnh, chữa bệnh có thẩm quyền chỉ định.

Trường hợp tạm hoãn thực hiện HĐLĐ, thời gian tạm hoãn do NLĐ nữ thỏa thuận với NSDLĐ, nhưng tối thiểu phải bằng thời gian do cơ sở khám bệnh, chữa bệnh có thẩm quyền chỉ định tạm nghỉ. Trong trường hợp không có chỉ định của cơ sở khám bệnh, chữa bệnh có thẩm quyền về thời gian tạm nghỉ thì hai bên thỏa thuận về thời gian tạm hoãn thực hiện HĐLĐ.

9.1.9.   Chế độ làm việc linh hoạt

Một trong những trở ngại lớn nhất của NLĐ, đặc biệt là NLĐ nữ, đó là phải hài hòa và cân bằng được nhu cầu giữa công việc và cuộc sống. Vấn đề là, sau khi NLĐ nữ nghỉ thai sản và trở lại làm việc với việc làm cũ, phạm vi công việc đó là không thay đổi và NLĐ nữ cũng không có quyền thay đổi phạm vi công việc cho dễ dàng hơn, trừ khi NLĐ đó thỏa thuận lại với NSDLĐ nhưng điều này là khó khả khi, do đó, pháp luật lao động đưa ra quy định về “chế độ làm việc linh hoạt”.

Theo đó, Chính phủ khuyến khích NSDLĐ áp dụng rộng rãi chế độ làm việc theo thời gian biểu linh hoạt, làm việc không trọn thời gian, giao việc làm tại nhà. NLĐ nữ không phải được tự động có quyền được làm việc theo thời gian biểu linh hoạt hoặc là làm việc không trọn thời gian mà quy định này chỉ dừng lại ở mức độ “hướng dẫn” để NSDLĐ cân nhắc và tạo điều kiện cho NLĐ nữ. Để thực hiện được điều này, NLĐ nữ cần phải thỏa thuận với NSDLĐ về thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi, hoặc làm việc không trọn thời gian thì mới áp dụng được trên thực tế.

9.1.10.   Các chính sách giúp đỡ, hỗ trợ lao động nữ

Căn cứ vào điều kiện cụ thể của doanh nghiệp mình, doanh nghiệp cần xây dựng phương án, kế hoạch giúp đỡ, hỗ trợ, xây dựng nhà trẻ, lớp mẫu giáo hoặc hỗ trợ một phần chi phí gửi trẻ, mẫu giáo đối với lao động nữ có con trong độ tuổi gửi trẻ, mẫu giáo bằng tiền mặt hoặc hiện vật. Mức và thời gian hỗ trợ do doanh nghiệp thỏa thuận với đại diện NLĐ nữ.

Đại diện NLĐ nữ tức là BCHCĐ cơ sở hoặc BCHCĐ cấp trên trực tiếp cơ sở nếu được tập thể NLĐ nữ có yêu cầu. Trường hợp không có yêu cầu thì doanh nghiệp lấy ý kiến của trên 50% NLĐ nữ tại doanh nghiệp.

NSDLĐ cũng được khuyến khích tổ chức, xây dựng nhà trẻ, lớp mẫu giáo. Nếu doanh nghiệp đầu tư xây dựng nhà trẻ, lớp mẫu giáo, cơ sở y tế, công trình văn hóa và các công trình phúc lợi khác mà đủ điều kiện về quy mô, tiêu chuẩn theo quy định của Thủ tướng Chính phủ thì doanh nghiệp còn được hưởng chính sách khuyến khích xã hội hóa theo quy định hiện hành của Nhà nước về chính sách khuyến khích xã hội hóa đối với các hoạt động trong lĩnh vực giáo dục, dạy nghề, y tế, văn hóa, thể thao và môi trường. Ngoài ra, nếu doanh nghiệp đầu tư xây dựng nhà ở cho NLĐ thì được hưởng các chính sách ưu đãi theo quy định của Luật Nhà ở.

NSDLĐ nào sử dụng nhiều NLĐ nữ thì cũng được xem xét giảm TTNDN theo quy định của Luật TTNDN; các khoản chi tăng thêm cho NLĐ nữ được tính vào chi phí được trừ khi xác định thu nhập chịu TTNDN theo quy định của Bộ Tài chính.


[1] Điều 42.6.1 Quyết định 595/QĐ-BHXH ngày 14/4/2017.