Trả lời:
Theo quy định của BLLĐ, NLĐ có quyền đơn phương chấm dứt HĐLĐ mà không cần có lý do với điều kiện là NLĐ phải báo trước cho NSDLĐ ít nhất 03 ngày làm việc nếu làm việc theo HĐLĐ xác định thời hạn có thời hạn dưới 12 tháng, ít nhất 30 ngày đối với HĐLĐ có thời hạn từ 12 tháng đến 36 tháng và ít nhất 45 ngày đối với HĐLĐ không xác định thời hạn. Vì đây là trường hợp chấm dứt HĐLĐ thuộc quyền đơn phương của NLĐ, cho nên NSDLĐ sẽ không phải trả lời thông báo hay chấp nhận bằng văn bản đối với thông báo chấm dứt của NLĐ. Lưu ý rằng, việc NSDLĐ trả lời đồng ý với thông báo chấm dứt của NLĐ sẽ có thể thay đổi trường hợp chấm dứt HĐLĐ theo hướng các bên thỏa thuận chấm dứt HĐLĐ trước thời hạn được quy định tại Điều 34.3 BLLĐ, chứ không phải thuộc trường hợp NLĐ đơn phương chấm dứt HĐLĐ được quy định tại Điều 35 BLLĐ. Khi đó, nếu không có thỏa thuận nào khác giữa các bên, NLĐ có thể sẽ không phải tuân thủ nghĩa vụ báo trước khi chấm dứt HĐLĐ theo quy định như đã trình bày ở trên.
Căn cứ Điều 38 BLLĐ, mỗi bên đều có quyền huỷ bỏ việc đơn phương chấm dứt HĐLĐ trước khi hết thời hạn báo trước nhưng phải thông báo bằng văn bản cho bên còn lại và cần được bên còn lại đồng ý. Như vậy, nếu NLĐ đã nộp đơn thông báo chấm dứt HĐLĐ cho NSDLĐ nhưng trước khi hết thời hạn thông báo lại có yêu cầu rút thông báo chấm dứt đó, NSDLĐ sẽ có quyền đồng ý hoặc không đồng ý với yêu cầu của NLĐ. Nếu NSDLĐ đồng ý với yêu cầu rút thông báo chấm dứt HĐLĐ của NLĐ, NSDLĐ có nghĩa vụ tiếp tục thực hiện HĐLĐ đã giao kết.